Thực trạng hôn nhân và gia đình dân tộc thiểu số

|

Thực trạng hôn nhân và gia đình dân tộc thiểu số

Do đặc trưng chung của đồng bào dâ;n tộc thiểu số sống chủ yếu ở vùng sâ;u, vùng xa, vùng miền núi hẻo lánh nên đời sống kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, với những hủ tục lạc hậu đã dâ;̃n đến tình trạng hôn nhâ;n, gia đình của đại bộ phận đồng bào dâ;n tộc thiểu số còn nhiều bất cập và hạn chế.

Tình trạng hôn nhâ;n của các dâ;n tộc thiểu số

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm từng bước nâ;ng cao đời sống của đồng bào các dâ;n tộc thiểu số, tuy nhiên theo đánh giá, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng dâ;n tộc thiểu số và miền núi tại nước ta còn chậm, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao (hơn 80%), cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn kém, trình độ dâ;n trí của người dâ;n nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Theo đánh giá, đặc trưng chung của đa số hộ gia đình người dâ;n tộc thiểu số ở vùng sâ;u, vùng xa hẻo lánh còn nhiều khó khăn, với việc coi "làm ăn” để sinh tồn là lẽ sống, đòi hỏi trẻ em tham gia vào việc đóng góp sức lực, kinh tế cho gia đình. Nam nữ đến tuổi trưởng thành phải tập trung lao động để sinh sống. Các em trai được trông đợi trở thành người trụ cột, có trách nhiệm trong gia đình, các em gái được trông đợi trở thành vợ và mẹ. Mặt khác, trong bối cảnh của những quy chuẩn văn hóa phụ hệ, việc lập gia đình có ý nghĩa thay đổi vị thế xã hội và ý nghĩa cho cuộc đời con người. Các tư duy cho rằng, hôn nhâ;n là đích đến tất yếu và cần thiết để duy trì và củng cố trong các tộc người, đã chi phối mọi nhận thức trong tình yêu và hôn nhâ;n của các em, từ đó tác động ảnh hưởng tới tình trạng hôn nhâ;n của nhiều tộc người thiểu số.

Kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội 53 dâ;n tộc thiểu số năm 2019 của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dâ;n tộc cho thấy: Việt Nam có 53 dâ;n tộc thiểu số, với trên 14 triệu người (chiếm 14,68% dâ;n số cả nước). So với năm 2009, dâ;n tộc thiểu số tăng 1,42%. Dâ;n tộc thiểu số cư trú thành cộng đồng ở 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 503 huyện, 5468 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 424 xã biên giới (tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia). Trong đó có 13,8% sống ở thành thị, và 86,2% nông thôn.

 


 
Tỷ lệ người dâ;n tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn là 78,9%, cao hơn tỷ lệ chung của dâ;n số cả nước (77,5%). Một số dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ dâ;n số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn cao như: Lự (84,2%), Hrê và Xinh Mun (83,9%), La Chí (83,6%), Mông (83,1%). Dâ;n tộc Hoa, Ơ Đu, Si La là những dâ;n tộc có tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên kết hôn thấp nhất, lần lượt là 66,1%, 68,7% và 69,2%.

Tình trạng ly hôn trong đồng bào dâ;n tộc thiểu số là không phổ biến. Tỷ lệ người dâ;n tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên đã ly hôn chỉ 1,2%. Dâ;n tộc Ngái và dâ;n tộc Brâ;u có tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên ly hôn cao nhất, lần lượt là 2,4% và 2,3%.
 
 
Tình trạng tảo hôn và hôn nhâ;n cận huyết thống vẫn đang diễn ra ở một số tộc người thiểu số. Năm 2018, theo dâ;n tộc, tỷ lệ tảo hôn cao nhất là: dâ;n tộc Mông chiếm 51,5%, Cơ Lao chiếm 47,8%, Mảng chiếm 47,2%, Xinh Mun chiếm 44,8%, Mạ chiếm 39,2%. Tỷ lệ tảo hôn của nữ dâ;n tộc thiểu số cao hơn nam dâ;n tộc thiểu số; tỷ lệ hôn nhâ;n cận huyết thống cao nhất là dâ;n tộc Mnông chiếm 37,7%0, La Chí chiếm 30,8%0, Bru-Vâ;n Kiều chiếm 28,6%0, Cơ Tu chiếm 28%0 và Lô Lô chiếm 22,4%0.

Tình trạng kinh tế của hộ gia đình dâ;n tộc thiểu số

Các kết quả điều tra cho thấy, hiện vùng đồng bào dâ;n tộc thiểu số và miền núi hiện vẫn là “lõi nghèo” của cả nước, thu nhập bình quâ;n đầu người của dâ;n tộc thiểu số chỉ bằng khoảng 30% so với bình quâ;n chung cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo theo kết quả điều tra năm 2019 vẫn khá cao ở các hộ gia đình dâ;n tộc tại các xã vùng dâ;n tộc thiểu số (35,4), cao gấp 3,5 lần tỷ lệ chung của toàn quốc (10,2%). Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở khu vực biên giới cao gấp 1,4 lần khu vực khác (48,1% so với 34,3%); khu vực nông thôn cao xấp xỉ 4 lần khu vực thành thị (39,3% so với 10,9%).

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là vùng có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao nhất. Gần một nửa (48,1%) hộ dâ;n tộc tại các xã vùng dâ;n tộc thiểu số ở khu vực này thuộc diện nghèo và cận nghèo. Đặc biệt, dâ;n tộc Chứt có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo lên đến 89,3%, nghĩa là cứ 10 hộ thì có đến 9 hộ thuộc diện nghèo hoặc cận nghèo. Ngoài các dâ;n tộc nói trên, cả nước vẫn còn 21 dâ;n tộc có tỷ lệ hộ nghèo chiếm hơn một nửa. Trong đó có dâ;n tộc Mông - một trong số ít dâ;n tộc thiểu số có dâ;n số đông nhất (trên 1 triệu người) nhưng có số hộ nghèo và cận nghèo chiếm đến 2/3 (65,6%). Hai vùng có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc (39%), Tâ;y Nguyên (35,2%). Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo thấp nhất là ở Đông Nam Bộ với 4,6%. Mới chỉ có khoảng 6,2% lao động người dâ;n tộc thiểu số được qua đào tạo (từ sơ cấp nghề trở lên), bằng 1/3 so với tỷ lệ trung bình của cả nước.

Tình trạng thiếu việc làm diễn ra khá phổ biến trong các gia đình dâ;n tộc thiểu số. Ở một số dâ;n tộc, các nhóm dâ;n tộc có tỷ trọng việc làm trong nông nghiệp cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao và tỷ lệ đói nghèo ở các dâ;n tộc này cũng rất cao, như: Co, Xinh Mun, La Hủ, Chứt, Mảng, Pà Thẻn có số hộ nghèo và cận nghèo chiếm đến hơn 70%.

Mức sinh và quy mô hộ gia đình dâ;n tộc thiểu số

Ước lượng tổng tỷ suất sinh (TFR) của người dâ;n tộc thiểu số từ kết quả Điều tra thực trạng kinh tế-xã hội 53 dâ;n tộc thiểu số năm 2019 là 2,35 con/phụ nữ. Mức sinh của phụ nữ dâ;n tộc thiểu số năm 2019 đã giảm 0,03 con/phụ nữ so với năm 2015 nhưng vẫn khá cao so với mức bình quâ;n chung của cả nước là 2,09 con/ phụ nữ và cao hơn so với mức sinh thay thế 2,1 con/phụ nữ. Trong 53 dâ;n tộc thiểu số, dâ;n tộc Hoa và dâ;n tộc Hrê có mức sinh thấp nhất và thấp hơn mức sinh thay thế, lần lượt là 1,52 con/phụ nữ và 2,08 con/phụ nữ. 5 dâ;n tộc có mức sinh cao nhất gồm: Mảng (4,97 con/phụ nữ), Chứt (3,82 con/phụ nữ), Cơ Lao (3,71 con/ phụ nữ), La Hủ (3,68 con/phụ nữ) và Mông (3,57 con/phụ nữ).

Cũng theo kết quả điều tra năm 2019, tính đến thời điểm 01/4/2019, số hộ dâ;n tộc thiểu số là 3.680.943 hộ, chiếm 13,7% tổng số hộ của cả nước. Quy mô hộ phổ biến của 53 dâ;n tộc thiểu số có số người trung bình từ 2-4 người/hộ, chiếm 59% tổng số hộ dâ;n tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ độc thâ;n (hộ 1 người) chiếm 5,6% tổng số hộ; hộ từ 7 người trở lên chiếm 7,9% tổng số hộ. Một số dâ;n tộc có tỷ lệ hộ từ 7 người trở lên cao, như: Mông (24,2%), Mảng (20,5%) Khơ Mú (15,1%), Lô Lô (15%). Tính trung bình, quy mô hộ dâ;n tộc thiểu số là 4,1 người/hộ ở năm 2019 (quy mô bình quâ;n một hộ của cả nước là 3,6 người). Các dâ;n tộc Mông, Khơ Mú, Mảng là những dâ;n tộc có quy mô bình quâ;n một hộ cao nhất, dâ;n tộc Mông có quy mô 5,3 người/hộ, dâ;n tộc Khơ Mú và Mảng có quy mô 4,8 người/hộ. Các dâ;n tộc Rơ Măm, Brâ;u, Hrê, Tày, Pu Péo là những dâ;n tộc có quy mô hộ nhỏ nhất với 3,5 người/hộ hoặc 3,6 người/hộ.

Tình trạng tiếp cận giáo dục, đào tạo nghề và thông tin của hộ gia đình dâ;n tộc thiểu số

Theo kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học của học sinh dâ;n tộc thiểu số là 100,5%, cấp trung học cơ sở (THCS) là 85,8% và trung học phổ thông (THPT) là 50,7%. Ở cấp tiểu học, không có nhiều sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn về tỷ lệ đi học chung (100,4% so với 100,5%). Cấp học càng cao thì khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ đi học chung giữa thành thị và nông thôn càng lớn, cụ thể: Cấp THCS, tỷ lệ đi học chung của khu vực thành thị cao hơn tỷ lệ đi học chung của khu vực nông thôn là 6% (91% so với 85%); mức chênh lệch này ở cấp THPT là 24,1% (71,1% và 47%). So với năm 2015, mức độ tiếp cận với giáo dục phổ thông của người dâ;n tộc thiểu số đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là ở cấp THPT với tỷ lệ đi học chung ở cấp này tăng 8,9% (năm 2015, tỷ lệ đi học chung của 53 dâ;n tộc thiểu số ở cấp tiểu học là 98,6%; cấp THCS là 83,9%, cấp THPT là 41,8%).

Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp THCS và THPT của trẻ em dâ;n tộc thiểu số lần lượt là 81,6% và 47%. Một số dâ;n tộc có tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi ở hai cấp này cao hơn mức bình quâ;n chung của 53 dâ;n tộc thiểu số, như: Tày, Hoa, Mường, Nùng, Ngái, Sán Dìu, Si La, Bố Y. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi cấp THPT thấp (dưới 30%), như: Mông, Ba Na, Gia Rai, Mnông, Raglay, Xtiêng... Tương tự như tỷ lệ đi học chung, tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em dâ;n tộc thiểu số ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn ở tất cả các cấp học; cấp học càng cao, sự khác biệt càng lớn.

Tỷ lệ trẻ em dâ;n tộc thiểu số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học giảm gần 2 lần, từ 26,4% năm 2009 xuống còn 15,5% năm 2019. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường của 53 dâ;n tộc thiểu số hiện vẫn cao hơn gần 2 lần tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường của cả nước và cao hơn gần 3 lần tỷ lệ này của dâ;n tộc Kinh. Tỷ lệ trẻ em trai dâ;n tộc thiểu số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học cao hơn trẻ em gái, mức chênh lệch là 1,9% (16,4% so với 14,5%). Có 19/53 dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường trên 20%, trong đó tỷ lệ này của dâ;n tộc Brâ;u cao nhất (35,4%), tiếp đến là dâ;n tộc Xtiêng (35,3%). Dâ;n tộc Sán Dìu và dâ;n tộc Tày có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường thấp nhất trong 53 dâ;n tộc thiểu số, tương ứng là 3,7% và 5,1%. Tỷ lệ trẻ em dâ;n tộc thiểu số ngoài nhà trường giữa các cấp học cũng có sự khác biệt khá rõ. Cấp học càng cao, tỷ lệ này càng tăng. Ở cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng 2 em không đến trường; con số tương ứng ở cấp THCS (lứa tuổi dễ tảo hôn) là 13 em, ở cấp THPT là 46 em. Một số dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ trẻ em không đi học THCS cao hơn khoảng 3 lần so với mức chung của 53 dâ;n tộc thiểu số như: Brâ;u (45,2% so với 13,3%), Xtiêng (39,6% so với 13,3%); Gia Rai (36,3% so với 13,3%). Tình trạng học sinh dâ;n tộc thiểu số trong độ tuổi học THPT không đến trường là phổ biến ở hầu hết các dâ;n tộc với 27/53 dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ học sinh trong độ tuổi không đi học THPT chiếm trên 50%. Ở tất cả các cấp học và hầu hết các dâ;n tộc thiểu số, tình trạng bỏ học hoặc chưa bao giờ đi học của trẻ em trai luôn cao hơn trẻ em gái. Tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông của người dâ;n tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên là 80,9%, tăng 1,7% so với năm 2015. Như vậy, sau gần 5 năm tỷ lệ này tăng lên không nhiều. Để đạt được mục tiêu của Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dâ;n tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030: “Đến năm 2025 người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông trên 90%”, cần tập trung các chính sách để nâ;ng cao tỷ lệ đi học của trẻ em dâ;n tộc thiểu số ở các cấp và các chương trình bổ túc văn hóa đối với người dâ;n tộc thiểu số ngoài độ tuổi đi học phổ thông.

Nhìn chung, tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông ở nhiều dâ;n tộc thiểu số còn khá thấp, trong đó thấp nhất là các dâ;n tộc: Mảng (46,2%), La Hủ (46,9%), Lự (49,7%), Mông (54,3%). Các dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông cao như: Ngái (96,5%), Sán Dìu (95,7%), Mường (95,5%), Tày (94,9%), Thổ (94,9%), Hoa (91%), Nùng (90%).

Có sự khác biệt về giới và khu vực thành thị, nông thôn về khả năng đọc thông viết thạo chữ phổ thông của người dâ;n tộc thiểu số. Nam dâ;n tộc thiểu số có tỷ lệ đọc thông viết thạo chữ phổ thông cao hơn nữ dâ;n tộc thiểu số 11,6% (86,7% so với 75,1%). Tỷ lệ này của người dâ;n tộc thiểu số sống ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn 8,9% (88,7% so với 79,8%). Đặc biệt, đối với phụ nữ dâ;n tộc thiểu số có một tỷ lệ đáng kể không biết chữ, không biết tiếng phổ thông nên không thể giao tiếp được với người ngoài cộng đồng. Hiện nay, có một bộ phận chủ hộ (bao gồm cả ông bố và bà mẹ) không biết chữ và tiếng phổ thông đã ảnh hưởng đáng kể tới quá trình giáo dục con cái của họ và hòa nhập cộng đồng...

Về cơ hội tiếp cận thông tin, kết quả điều tra năm 2019 cho thấy, cùng với sự tăng cao của tỷ lệ hộ sử dụng máy vi tính và điện thoại, tỷ lệ hộ được tiếp cận internet của đồng bào vùng dâ;n tộc thiểu số đã được cải thiện đáng kể, chiếm 61,3% tổng số hộ dâ;n tộc thiểu số, tăng 54,8% so với năm 2015. Trong số 53 dâ;n tộc thiểu số, dâ;n tộc Hoa có tỷ lệ hộ sử dụng internet cao nhất (83,7%), tiếp đến là dâ;n tộc Ngái (81,9%) và thấp nhất là dâ;n tộc La Hủ (10,2%). Nếu như năm 2015, chưa có hộ nào thuộc dâ;n tộc Rơ Măm và Brâ;u sử dụng internet thì đến nay, tỷ lệ hộ sử dụng internet của hai dâ;n tộc này đã đạt lần lượt là 30,8% và 15,1%. Sự cải thiện về tỷ lệ hộ sử dụng internet cho thấy cơ hội tiếp cận thông tin của các hộ dâ;n tộc thiểu số đã được mở rộng, từ đó góp phần nâ;ng cao dâ;n trí, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dâ;n tộc thiểu số./.
Nguyễn Thị Kim Chi
Trưởng phòng, Phòng Tổ chức - Hành chính, Cục Thống kê TP. Hà Nội
 
Trang cá cược Hula